Năng lượng từ sinh khối, tích cực hay tiêu cực?
Đã kiểm duyệt nội dung
Năng lượng từ sinh khối có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch, than đá, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Trong quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch hoặc sinh khối sẽ giải phóng lượng lớn khí CO2. Thế nhưng thực vật lại có khả năng thu nhận nguồn CO2 trong quá trình quang hợp và thải ra khi chúng bị đốt cháy. Điều này sẽ trở thành nguồn năng lượng để trung hòa nguồn cacbon.
Công ty tư vấn môi trường Hợp Nhất sẽ tổng hợp một số hoạt động phát sinh năng lượng từ sinh khối để bạn đọc và đối tác theo dõi!
Đốt củi
Sử dụng gỗ và than củi để sưởi ấm, nấu ăn có thể thay thế bằng nhiên liệu hóa thạch và giảm thiểu đáng kể nguồn CO2 phát sinh. Trong đó gỗ được khai thác chủ yếu từ rừng. Khói gỗ có đặc tính chứa nhiều chất ô nhiễm có hại như cacbon monoxide và nhiều chất dạng hạt.
Với những bếp củi hiện đại, lò sưởi có thể giảm việc sử dụng các hoạt động đốt củi. Gỗ và than củi là nhiên liệu dùng trong nấu ăn, sưởi ấm tại các nước nghèo, và mức độ khai thác gỗ nhanh hơn gây ra hiện tượng phá rừng. Như vậy việc trồng cây sinh trưởng để lấy nguyên liệu chất đốt và sử dụng bếp đun nấu không chỉ tiết kiệm nhiên liệu mà còn làm chậm nạn phá rừng và cải thiện môi trường đáng kể.
Đốt chất thải rắn đô thị
Quá trình đốt chất thải rắn trong các nhà máy sẽ biến chất thải thành năng lượng có thể dẫn đến việc chôn lấp chất thải ít hơn. Mặc khác, việc đốt chất thải có thể gây ô nhiễm không khí và thải ra nhiều chất hóa học vào không khí. Một số hóa chất có thể gây nguy hiểm cho con người và môi trường mà chúng ta không thể kiểm soát hoàn toàn.
Vì thế mà nhiều quốc gia đưa ra nhiều quy định nghiêm ngặt cho nhiều nhà máy đốt rác phải sử dụng thiết bị kiểm soát ô nhiễm bằng các quy trình xử lý khí thải như máy lọc, bộ lọc vải, bộ lọc tĩnh điện để thu giữ hết các chất khí ô nhiễm. Người ta thường phun chất lỏng vào khí đốt để trung hòa các axit trong dòng khí.
Bộ lọc vải và bộ lọc tĩnh điện cũng có tác dụng loại bỏ hết tro bay. Trong các lò đốt chất thải thành năng lượng có nhiệt độ cao làm phân hủy các hóa chất trong các lò đốt thành hợp chất đơn giản và ít độc hại hơn.
Xử lý tro bay từ các nhà máy xử lý chất thải thành năng lượng
Tro bay trong các nhà máy sản xuất chất thải thường chứa nồng độ kim loại như chì hoặc cadium. Cần hạn chế đưa pin vào nguồn rác thông thường vì nó chứa nhiều chì và cadium, bóng đèn huỳnh quang thì chứa nhiều thủy ngân. Các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt cần có lớp che phủ tro bay, có thể sử dụng tro xỉ làm các vật liệu xây dựng như gạch bê tông.
Thu gom khí sinh học
Khí sinh học thường được sản xuất với khối lượng lớn trong các nhà máy xử lý nước thải, bãi chôn lấp chất thải hoặc hệ thống xử lý phân gia súc. Khí sinh học chứa nhiều khí CH4 và CO2. Hiện nay, nhiều cơ sở sản xuất khí sinh học và thay thế gas bằng khí CH4 hoặc tạo ra nguồn điện lớn cung cấp cho quá trình sinh hoạt.
Điện sản xuất từ khí metan có thể thay thế việc phát điện từ nhiên liệu hóa thạch và có tác dụng giảm lượng khí CO2 thải ra ngoài môi trường. Trong khi đó việc đốt CH4 tạo ra khí CO2 nhưng vì CH4 là khí nhà kính mạnh hơn CO2 nên hiệu ứng nhà kính cơ bản thấp hơn.
Nhiên liệu sinh học lỏng: ethanol và diesel sinh học
Nhiên liệu sinh học hầu như không chứa cacbon vì 2 loại khí này có nguồn gốc thực vật như ngô và mía sản xuất ethanol; đậu nành và cây cọ sản xuất dầu diesel sinh học. Chúng có tác dụng hấp thụ khí CO2 và bù đắp lượng khí CO2 trong quá trình sản xuất và đốt cháy.
Quá trình trồng cây lương thực làm nhiên liệu sinh học gây ra nhiều tranh cãi về đất đai, phân bón và năng lượng. Tại nhiều khu vực trên thế giới, người ta chặt phá rừng và thảm thực vật để trồng mía lấy ethanol, đậu nành và cọ để lấy dầu diesel. Nhiều quốc gia hỗ trợ việc phát triển năng lượng sinh khối không ảnh hưởng đến môi trường bằng cách sử dụng ít phân bón, thuốc trừ sâu, ít sử dụng năng lượng.
Trong khi đó, quá trình đốt cháy hỗn hợp ethanol và năng ethanol phát sinh lượng khí thải bay hơi, chúng là nguyên nhân hình thành tầng sương mù và ozon có hại ở mặt đất. Còn việc đốt cháy diesel sinh học tạo ra ít khí oxit lưu huỳnh, ít chất dạng hạt, ít cacbon monoxide, ít hydrocacbon và ít oxit nito hơn so với dầu diesel.