Quy định về quan trắc môi trường ở Đông Nam Á
Đã kiểm duyệt nội dung
Pháp luật quan trắc vốn dĩ là hoạt động quan trắc môi trường có liên quan đến khái niệm một số luật, quy phạm của nhà nước nhằm điều chỉnh việc đo đạc, lấy mẫu về các thành phần môi trường. Đây cũng là điều kiện quan trọng xác định yếu tố môi trường với đầy đủ hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường cùng những tác động xấu khác.
Đối với pháp luật về quan trắc môi trường ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Luật BVMT 2014 mô tả chi tiết hoạt động quan trắc môi trường chiếm đến 12 chương với những quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường, quy hoạch tổng thể môi trường cùng các thủ tục hành chính,… Quy trình kỹ thuật bao gồm quan trắc môi trường không khí xung quanh, tiếng ồn, nước mặt lục địa, nước dưới đất, nước mưa, khí thải,…
Thẩm quyền thẩm định hoạt động quan trắc do Bộ TNMT UBND cấp tỉnh, KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao, CCN, làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thực hiện đầy đủ chương trình quan trắc.
Và mới đây theo thông tin mới nhất mà công ty môi trường Hợp Nhất cập nhật thì dự thảo Luật BVMT sửa đổi đã được thông qua với khái niệm quan trắc môi trường được điều chỉnh, bổ sung về thời điểm quan trắc. Ngoài ra, thẩm quyền quan trắc sẽ do nhiều Bộ khác nhau quản lý.
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục sử dụng số liệu quan trắc hữu ích, thu thập cơ sở dữ liệu đồng nhất, chính xác hơn.
Đối với pháp luật về quan trắc môi trường Thái Lan
Ở Thái Lan việc quan trắc thể hiện trong Luật Tăng cường và bảo vệ chất lượng môi trường quốc gia (2018). Tất cả các vấn đề môi trường bao gồm nội dung quan trắc đều thuộc Luật này.
Khu vực kiểm soát ô nhiễm sẽ được quan trắc theo từng bước, cụ thể:
- Phải khảo sát và thu thập số liệu của điểm ô nhiễm trong từng khu vực.
- Lập danh mục số lượng, chủng loại và kích cỡ của điểm/nguồn ô nhiễm.
- Tiến hành nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình trạng ô nhiễm, phạm vi, tính chất và mức độ ô nhiễm.
- Đề xuất biện pháp giảm thiểu và tăng cường xử lý ô nhiễm tại khu vực ô nhiễm.
Quyền hạn giải quyết có hoạt động về môi trường thuộc thẩm quyền của Ban Môi trường quốc gia. Trách nhiệm của Ban là quy định các tiêu chuẩn chất lượng môi trường, phê duyệt kế hoạch quản lý, hành động phòng ngừa và khắc phục tình hình ô nhiễm cùng tiêu chuẩn phát thải/nước thải do Bộ trưởng Bộ TNMT đề xuất.
Đối với pháp luật về quan trắc môi trường ở Singapore
Là hình mẫu quốc gia về BVMT và giữ gìn vệ sinh công cộng, hệ thống quan trắc môi trường được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, các chương trình quan trắc quốc gia, kế hoạch quan trắc. Nhờ vậy mà các nguồn ô nhiễm được xác định với từng thành phần nhất định.
Tại Singapore, hoạt động quan trắc thuộc trách nhiệm của người sở hữu hoặc người xả thải trực tiếp. Điển hình là mục tiêu quan trắc môi trường không khí để đánh giá tất cả vấn đề, xu hướng quan trắc nhằm ngăn chặn nguồn ô nhiễm đánh giá chính xác và hiệu quả chương trình kiểm soát ô nhiễm.
Chính phủ nước này cũng ban hành nhiều đạo luật về môi trường như Luật Quản lý và BVMT năm 1999, Luật sửa đổi năm 2002, Luật không khí sạch, Luật Chất thải nguy hại, Luật hệ thống thoát nước, Luật về môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Hiện nay, Cơ quan môi trường quốc gia Singapore có 7 bộ phận trực thuộc có vai trò kiểm soát môi trường bao gồm cả quan trắc môi trường, kiểm soát môi trường, quản lý các công cụ kiểm soát môi trường, dự án xây dựng nhà máy, công cụ xử lý chất thải, ban hành giấy phép, hợp tác môi trường giữa các quốc gia,…
Đối với pháp luật về quan trắc môi trường ở Malaysia
Chương trình quan trắc môi trường Malaysia được chia thành từng thành phần như không khí, nước sông, nước biển và nước mặt.
Chương trình quan trắc môi trường nước do Bộ Môi trường giám sát, phân loại các sông theo chất lượng, thu thập cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước tự nhiên. Từ khi bắt đầu từ năm 1978, những sự thay đổi chất lượng nguồn nước sông làm cơ sở để xác định nguồn ô nhiễm.
Đối với chương trình quan trắc môi trường không khí được thực thi từ năm 1977 có vai trò nhận diện khu vực có dân số cao, xác định mức ô nhiễm tối đa, nồng độ chất ô nhiễm công nghiệp và xu hướng ô nhiễm.